Ngay từ buổi bình minh của lịch sử, con người từng phải đối diện với những thách đố của các vấn nạn về tự nhiên, xã hội và tâm linh. Một trong số các vấn nạn gây nhiều tranh cãi nhất và kéo dài suốt từ thời thượng cổ cho đến nay chính là vấn nạn về nguồn gốc loài người. Thực ra, vấn đề này tưởng chừng như được khép lại nơi học thuyết tiến hóa của J.B. Lamark và C. Darwin trong thế kỷ XVIII và XIX, nhưng nó càng trở nên ầm ĩ hơn khi người ta bắt đầu nảy sinh những hoài nghi về độ chính xác của những chứng cứ và những mâu thuẫn với quan điểm cổ truyền của Giáo Hội về thần học sáng tạo. Cũng từ đó, ngày càng xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề tiến hóa: hoặc là chấp nhận, hoặc là chống đối hay dung hòa cả hai. Trong khuôn khổ của bài viết, chỉ xin lược nêu một vài quan điểm của Giáo Hội về thuyết tiến hóa và trên cơ sở đó đưa ra một cái nhìn chủ quan về vấn đề này.
Charles Darwin (1807-1882)
1. KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT TIẾN HÓA
Tiến hóa là quá trình phát triển của giới hữu sinh từ đơn giản đến phức tạp, trải qua quá trình tiệm tiến của những hoạt động chọn lọc nhiều thế kỷ. Học thuyết tiến hóa được Lamark khởi xướng, được Darwin hoàn thành và tiếp tục được phát triển với tư tưởng của G. Mendel, De Vries và phái tân Darwin.
Jean Baptiste de Lamark (1744 – 1829)
Lamark cho rằng, các loài sinh vật có cùng nguồn gốc, loài nọ biến thành loài kia, tiến triển từ những sinh vật đơn giản đến những sinh vật ngày càng phức tạp hơn. Hai nguyên nhân của sự tiến hóa là:
- Xu hướng tự phát muốn hoàn chỉnh của các sinh vật: việc năng dùng đến một bộ phận nào sẽ dần dần kiện toàn và phát triển bộ phận đó. Bộ phận nào ít sử dụng sẽ dần suy yếu và biến mất.
- Di truyền các tính trạng tập nhiễm: Những tính trạng tập nhiễm mà sinh vật thu nhận được có thể di truyền được cho thế hệ sau.
Charles Darwin (1807-1882)
Trong tác phẩm: “Về nguồn gốc các loài”, Darwin bắt đầu bằng việc mô tả chi tiết hàng loạt những thay đổi di truyền ở gia súc và trong tự nhiên. Sau đó ông mô tả cuộc đấu tranh sinh tồn giữa các loài và những chủng loại riêng lẻ. Đặc biệt trong chương bốn với tựa đề: “Sự chọn lọc tự nhiên hay là sinh tồn của các loài có khả năng nhất”, Darwin cho rằng: “Sự biến đổi của các loài riêng biệt và cuộc đấu tranh sinh tồn của mỗi loài là một quá trình có điều kiện tương hỗ mà kết quả của nó chỉ có những loài có khả năng nhất sẽ tồn tại mà thôi để cốt sao duy trì nòi giống, truyền lại cho con cháu những đặc điểm cho phép chúng tồn tại”[1] . Nhìn chung, học thuyết của Darwin được tóm lược trong những điểm cơ bản sau:
- Số lượng cá thể sinh ra trong mỗi thế hệ nhiều hơn số cá thể được sống sót và sinh sản.
- Có sự biến dị trong các cá thể làm cho chúng không hoàn toàn giống nhau về tất cả các đặc tính. Đó là kết quả của chọn lọc tự nhiên.
- Trong đấu tranh sinh tồn, những cá thể mang các tính trạng có lợi sẽ có nhiều cơ hội sống sót và sinh sản hơn là các cá thể mang các tính trạng không có lợi.
- Một số đặc điểm kết quả của sự sống sót và sinh sản có thể di truyền.
- Tất cả các loài sinh vật đều tiến hóa từ một vài tổ tiên chung.
- Cần có một thời gian rất lớn để cho sự tiến hóa xảy ra.
Gregor Mendel
Mặc dù học thuyết của Darwin được tán thành và chào đón ngay từ thời ông, nhưng một số nhà sinh vật học vẫn nhận thấy sự thiếu sót cơ bản của nó là không giải thích được trên quan điểm di truyền học. Một trong số các nhà sinh vật học đó là G. Mendel, một thầy tu người Áo. Mendel đã tiến hành một loạt các thí nghiệm di truyền học trên cây đậu và cho biết: “…những thế hệ sau đặc điểm cơ bản như chiều cao, hình dáng, màu sắc và cấu tạo thì những đặc điểm này bị phai nhạt dần và.. chỉ đến thời kỳ phân chia được tế bào mới có thể nhìn vào được cơ chế của sự tiến hóa” [2].
Hugo De Vries (1848- 1925)
Nhà thực vật Hà Lan, khám phá ra hiện tượng được gọi là “đột biến”, hệ tại ở việc thay đổi thình lình nơi một hay một số gene của một cá thể mới sinh, và tạo ra những thay đổi hơn kém đáng kể trong những nét loại biệt của động vật. Người ta nghiên cứu sâu rộng những đột biến như thế và ngay cả làm ra các sinh vật cách nhân tạo trong phòng thí nghiệm, đặc biệt là loài ruồi, chúng xảy ra tự phát trong thiên nhiên.
Phái Tân- Darwin
Đặt riêng rẽ ra, sự thích ứng được Lamark nhấn mạnh, sự tuyển chọn tự nhiên của Darwin, hoặc sự đột biến được De Vries khám phá ra dường như không đủ để giải thích tiến hoá. Ngày nay các nhà khoa học cố gắng liên kết những giải thích này lại với nhau trong học thuyết được gọi là “lý thuyết tổng hợp về tiến hoá” hay “chủ thuyết tân Darwin”; theo đó, những đột biến xảy ra nơi những chốn định cư thú vật. Lý thuyết nhấn mạnh đến những đột biến vốn bé nhỏ và thường không được chú ý, nhưng lại tạo ra những tác động lâu dài. Về cái gọi là “những đột biến vi tiểu”, thì những thú vật không thích hợp bị đào thải do sự tuyển chọn tự nhiên, còn những thú vật thích hợp được tồn tại.
2. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC VỀ TIẾN HOÁ
Khi nhìn nhận sự vật hiện tượng, các nhà khoa học chỉ xét đến bình diện nguyên nhân tác thành mà bỏ quên đi cái bên trong và năng lực quy tâm. Nhưng triết học thì không thể chấp nhận như vậy. Triết gia cắt nghĩa về những dữ kiện tiến hoá, xét đến bình diện nhân quả khác với khoa học.. Ngay từ thời cổ đại, nơi một số triết gia Hy Lạp, chúng ta đã gặp thấy một vài ý niệm tiến hoá hay biến đổi từ dạng thức này của sự sống sang dạng thức khác. Điển hình có Héraclite, Aristotle, Démocrite… Tuy nhiên, thuyết tiến hoá là sản phẩm đặc biệt của thời hiện đại và được coi là một lý thuyết có cơ sở khoa học; do đó, cũng có nhiều quan điểm triết học đã được vận dụng để giải thích sự kiện tiến hoá.
Với H. Bergson, ông chống lại chủ trương giải thích sự kiện tiến hoá chỉ theo quan điểm duy vật mà thôi. Ông phi bác lối giải thích của Spencer, nó ít mang tính chất khoa học và đề nghị quan điểm triết học về tiến hoá, dựa trên kết quả khoa học. Theo ông, cả thuyết tiến hoá “duy cơ” cũng như thuyết tiến hoá “hướng đích” đều khép kín trước thực tại mới mẻ của “đà sống”. Để giải quyết những bế tắc mà cả hai phái nói trên gặp phải và diễn tả viễn tượng tiến hoá luôn mở rộng trước sự phong phú khôn lường của tinh thần, ông đề nghị một quan niệm mới: “tiến hoá sáng tạo”.
Dù chia sẻ quan điểm “tiến hoá sáng tạo” với H. Bergson, Teilhard de Chardin vẫn đặc biệt đề cao chiều kích định hướng của tiến hoá. Vũ trụ của Teilhard de Chardin là một vũ trụ tiến hoá có định hướng: từ vật chất vô cơ tiến lên vật chất hữu cơ, ngang qua sự sống để tiến tới con người và cuối cùng tiến về Trung Tâm Hội Tụ. Chính Thiên Chúa tác động qua tiến hoá để hoàn tất công trình sáng tạo của Ngài. Theo Teilhard de Chardin, sự can thiệp của Thiên Chúa không nằm bên ngoài thực tại vật lý và sinh vật. Trái lại, chính Thiên Chúa đã phú bẩm nơi tạo vật một định hướng nội tại để tự động phát triển qua tiến trình tiến hoá. Teilhard de Chardin còn cho biết, sự chuyển biến từ thú vật sang con người có nghĩa là cuộc vượt qua từ ý thức tới tự thức, từ tri giác tới suy tư (phản tỉnh), từ một chân trời giới hạn đến một chân trời vô giới hạn. Nhà triết học đòi phải giải thích “bước nhảy vọt” này. Triết gia truyền thống chủ trương rằng, chỉ có thể giải thích được bằng việc Thượng Đế tạo dựng linh hồn con người vốn khác biệt cách cốt yếu với hồn của động vật cao nhất và thực sự lời giải thích này dường như là lời giải thích duy nhất có thể chấp nhận được.
3. Quan điểm của Giáo Hội về thuyết tiến hóa
3.1 Nền tảng đức tin về sáng tạo
Nguồn mạc khải Thánh Kinh cho biết, Thiên Chúa là Đấng dựng nên vũ trụ vạn vật, trong đó, con người là loài cao trọng nhất và được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài. Theo sách Sáng thế ký: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam, có nữ” (St 1, 27). “Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2, 7). Sau khi Thiên Chúa dựng nên con người, Ngài đã ban phúc lành cho họ, Thiên Chúa phán: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất...” (St 1, 28).
Truyền thống đức tin Công giáo cũng dạy rằng, con người chính là một thọ tạo do Thiên Chúa dựng nên. Kinh Tin Kính của các Tông đồ thời Giáo Hội sơ khai cũng đã tuyên tín về quyền phép của Thiên Chúa trong việc tạo dựng vũ trụ và con người: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất”. Với sự tuyên tín đó, Giáo Hội đã khẳng định, con người được chính Thiên Chúa dựng nên và được dựng nên theo hình ảnh của Ngài.
Như vậy, trong Thánh Kinh cũng như truyền thống đức tin của Giáo Hội Công giáo đều tuyên tín và xác quyết: “Vũ trụ vạn vật và con người là chính Thiên Chúa dựng nên, vì Ngài quyền phép vô cùng. Ngài có thể dựng nên mọi sự theo ý Ngài muốn”.
3.2. Lập trường của Tòa thánh Vaticanô về thuyết tiến hóa
Năm 1950, với thông điệp Humani Generis của Đức Thánh Cha Piô XII, vấn đề tiến hoá được Giáo Hội chính thức bàn đến. Kể từ năm 1950 đến nay, qua sáu triều Giáo hoàng thì đã có ba Đức giáo hoàng nhắc tới thuyết tiến hoá, đó là các Đức giáo hoàng Piô XII, với thông điệpHumani Generis; Đức John Paul II, với bài huấn từ cho Hàn Lâm Viện khoa học giáo hoàng, ngày 22/10/1996; và Đức Bênêđíctô XVI, với cuốn sách mang tựa đề “Sáng tạo và tiến hoá”, phát hành tại Đức, ngày 11-3-2007.
Đức Piô XII:
Khi bàn về thuyết tiến hóa, Đức Piô XII viết: “Giáo Hội không ngăn cấm việc nghiên cứu và tranh luận về vấn đề nguồn gốc thân xác con người từ một sinh vật có sẵn trước, Giáo Hội chỉ dạy phải tin linh hồn do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng…” [3].
Như vậy, theo Đức PiôXII, có thể chấp nhận thuyết tiến hoá, nhưng “phải tin linh hồn do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng”. Ngài cũng nói rõ: “Đây không phải là lý thuyết do các nhà thần học đề ra và triển khai, mà bắt nguồn từ bên ngoài đoàn chiên Chúa Kitô”[4] . Nên các nhà triết học và thần học cần phải đào sâu chứng cứ “như thể nó là một thuyết đã được chứng minh cách chắc chắn” [5].
Đức John Paul II
Trong bài huấn từ cho Hàn lân viện khoa học giáo hoàng, ngày 22/10/1996, khi đề cập đến thuyết tiến hoá, Đức giáo hoàng John Paul II nói:
“Đến nay, gần một nửa thế kỷ trôi qua, sau khi cho xuất bản thông điệp, thì sự am hiểu mới cho kết quả là thừa nhận thuyết tiến hoá hơn là giả thiết. Kết quả đáng ghi nhận là thuyết này không ngừng được các nhà nghiên cứu chấp nhận, theo sau là hàng loạt các khám phá trong nhiều lĩnh vực tri thức. Điểm chung, không tự tìm thấy cũng không tự tạo ra, của những thành quả trong công việc, mà được thực hiện một cách độc lập, chính là một lý lẽ đáng ghi nhận trong việc chấp thuận học thuyết này” [6]
Như vậy, Đức Piô XII chỉ thừa nhận thuyết tiến hoá như là một giả thuyết không chắc chắn, còn Đức Gioan PhaolôII chấp nhận nó như: “là một sự kiện được chứng minh có hiệu quả”. Tuy nhiên, ngài chấp nhận thuyết tiến hoá nhưng không phải hoàn toàn như các nhà khoa học đưa ra thuyết này, mà theo định hướng của thông điệp Humani Generis: “tin linh hồn do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng”.
Đức Bênêđíctô XVI:
Trong tác phẩm mang tựa đề “Sáng tạo và tiến hoá”, được phát hành hôm 11/3/2007, tại Đức, khi bàn về thuyết Tiến hóa, Đức thánh cha Bênêđíctô XVI cho rằng, thuyết tiến hoá là thuyết không thể chứng minh đầy đủ được và khoa học không nhất thiết hạn chế cái nhìn tạo dựng của nhân loại. Ngài viết: “Vấn đề không phải là một quyết định ủng hộ cho một thuyết sáng tạo có nội dung loại trừ khoa học ra ngoài, hoặc tán thành một lý thuyết về tiến hoá còn chữa nhiều lỗ hổng và không muốn nhìn thấy những vấn đề vượt lên trên các khả năng về phương pháp luận của khoa học tự nhiên” [7].
Đức thánh cha cho rằng, thời gian mênh mông mà thuyết tiến hoá đưa ra là không khả thi đối với các cuộc thử nghiệm, ngài viết: “Chúng ta không thể kéo cả 10.000 thế hệ vào phòng thí nghiệm được” [8].
4. MỘT CÁI NHÌN CHỦ QUAN
Dựa trên quan điểm của Giáo Hội, thiết nghĩ không hề có sự mâu thuẫn giữa thuyết tiến hóa với vấn đề thần học tạo dựng. Darwin đã từng quả quyết rằng, học thuyết của ông không hề có mâu thuẫn với Giáo Hội; do đó, ông đề nghị học giả ngẫm nghĩ thật kỹ học thuyết chọn lọc tự nhiên như là một phương pháp của Thiên Chúa để phân bố các loài trên trái đất [9]. Cũng nên nói thêm, Thánh Kinh mà cụ thể là sách Sáng thế không dạy những chân lý khoa học, nhưng có ý chuyển tải một ý nghĩa rằng, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ và tất cả mọi loài, trong đó có con người. Mặt khác, với nhãn quan của người cổ đại, họ chỉ có thể trình bày chân lý Thiên Chúa sáng tạo bằng phương pháp trực quan sinh động hay dung hợp do vay mượn từ các nền văn hóa khác cùng thời, chứ không theo phương pháp khám phá của khoa học ngày nay. Vì vậy, việc Thiên Chúa tạo dựng nên con người từ bùn đất, hay là từ sự tiến hóa của các loài đơn giản đến phức tạp thì cũng cùng một nghĩa rằng: thân xác con người được tạo nên từ một dạng của vật chất, nghĩa là sự sống tự nhiên. Hơn nữa, nhờ Đức tin mà chúng ta khám phá ra rằng:nguyên nhân cùng đích của sự tiến hoá thành người chính là Thiên Chúa. Và con người không chỉ có thể xác là một dạng của vật chất, mà còn có linh hồn, tức sự sống siêu nhiên vì được tham dự vào sự sống của chính Ngài. Do đó, dựa theo quan điểm của Đức Piô XII, có thể chấp nhận được thuyết tiến hóa, nhưng: “phải tin linh hồn do Thiên Chúa trực tiếp sáng tạo”. Cũng từ đây, một vấn nạn nữa nảy sinh: Khi nào thì linh hồn một nhân vị hình thành? Thiết nghĩ, đó là vấn đề lớn của thần học vì thuộc phạm vi Đức Tin. Dẫu vậy, với nỗ lực của lý trí, chúng ta chỉ có thể khẳng định: khi mầm sống nhân vị xuất hiện thì đồng thời xuất hiện linh hồn của nhân vị đó, nghĩa là hồn xác phải hợp nhất nơi nhân vị hiện hữu, vì nếu tách biệt (như quan điểm của Descartes), “Nó” chỉ còn là sự sống siêu nhiên - một tồn tại vĩnh hằng của linh hồn trong thế giới vô hình.
G.B. Nguyễn Văn Chiến
[1] Văn minh nhân loại – những bước ngoặt lịch sử, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002, trang 253
[2] Sđd, trang 253
[3] CAO VĂN ĐẠT (Lm), Tâm lý triết học, Đại chủng viện thánh Giuse, 2006, trang 78.
[4] x. Fides et Ratio, số 54
[5] x. Fides et Ratio, số 54; Doug Linde, sđd
[6] x. Doug Lind, sñd; LÊ AN HÒA, Đức tin Công Giáo và thuyết tiến hóa, Http://www.chungnhanduckito.net
[7] x. TRẦN CÔNG NGHỊ, Đức thánh cha Bênêđíctô nói thuyết tiến hóa không thể chứng minh được, Vietcatholic.News 11/04/2007
[8] Sđd.
[9] Văn minh nhân loại – những bước ngoặt lịch sử, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002, trang 252.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét